NHNN muốn giảm tỷ lệ cho vay trung dài hạn để thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp

NHNN muốn giảm tỷ lệ cho vay trung dài hạn để thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp

NHNN đang lấy ý kiến rộng rãi đối với Dự thảo Thông tư thay thế thông tư 36. Trong đó nổi bật là nội dung sửa đổi liên quan đến việc tiếp tục giảm chỉ tiêu tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn.

Theo số liệu được NHNN công bố, tỷ lệ nguồn vốn cho vay trung dài hạn đến hết tháng 2/2019 của khối NHTM Nhà nước là 31,12% và của khối NHTM Tư nhân là 32,4%. Dự thảo Thông tư thay thế thông tư 36 mới đặt mục tiêu xuống 30% trong hơn 2 hoặc 3 năm tới với 2 phương án có lộ trình khác nhau.

Phương án 1 giảm theo chu kỳ mỗi năm giảm 5%. Cụ thể đến hết ngày 30/6/2020 vẫn giữ mức tối đa 40%, đến hết ngày 30/6/2021 tối đa 35% và từ 01/7/2021 tối đa 30%.

Phương án 2 giảm theo chu kỳ mỗi năm giảm 3%. Cụ thể đến hết ngày 30/6/2020 vẫn giữ mức tối đa 40%, đến hết ngày 30/6/2021 tối đa 37%, đến hết ngày 30/6/2022 tối đa 34%; và từ 01/7/2022 tối đa 30%.

NHNN đánh giá cả 2 lộ trình trên đều hợp lý, không gây áp lực với thị trường tài chính. Với việc Basel 2 sắp đưa vào áp dụng, các ngân hàng hầu như sẽ không được sử dụng nguồn vốn có tính chất ngắn hạn để phục vụ cho vay hoặc đầu tư trung dài hạn. Như vậy, mức mục tiêu 30% trong 2 – 3 năm tới vẫn là con số khiêm tốn, có tính đến yếu tố thị trường vốn (thị trường cổ phiếu và trái phiếu) Việt Nam chưa phát triển.

Việc ngân hàng hạn chế cho vay trung dài hạn cần được nhìn nhận là động lực để Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn thị trường vốn, khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm nguồn vốn trên thị trường chứng khoán, từ đó khắc phục hiện tượng mất cân bằng trong hệ thống tài chính.

Hiện nay, hệ thống ngân hàng đang chiếm 68% tổng tài sản toàn hệ thống tài chính và đang đảm nhận nhiệm vụ chính trong cung ứng vốn trung dài hạn cho nền kinh tế. Đây là chức năng lẽ ra thuộc về thị trường vốn. Tuy nhiên, hiện khu vực trái phiếu doanh nghiệpViệt Nam đang còn nhỏ bé với giá trị vốn hóa đến cuối năm 2018 chỉ đạt 8,57% GDP, thấp hơn nhiều so với Thái Lan là 21,33% GDP, Malaysia 46,3% GDP.

Tình trạng mất cân đối này khiến hệ thống tài chính Việt Nam luôn bị các định chế quốc tế như IMF, World Bank đánh giá kém về tính lành mạnh và tiềm ẩn rủi ro liên quan đến thanh khoản hệ thống ngân hàng. Vấn đề này càng đáng lo lắng hơn khi từ năm 2016 giá nhà đất liên tục tăng cao và sốt đất diễn ra tại một số khu vực.

Với việc hạn chế nguồn vốn tín dụng ngân hàng, động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tìm đến nguồn vốn trên thị trường chứng khoán, từ khu vực tư nhân. Điều này một mặt sẽ khuyến khích thị trường chứng khoán phát triển, mặt khác giảm rủi ro cho khu vực ngân hàng. Đặc biệt, nhiều nghiên cứu các nước tương đồng với Việt Nam cho thấy mức độ giám sát và áp lực minh bạch hóa hoạt động, tuân thủ quy định trên thị trường chứng khoán đối với doanh nghiệp vay vốn là tốt hơn so với vay vốn ngân hàng.

Trên thực tế thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam mặc dù còn những hạn chế nhất định nhưng đã tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Cụ thể năm 2018 chứng kiến thị trường trái phiếu bùng nổ với 107 thương vụ phát hành trái phiếu của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán, khối lượng phát hành thành công là 224.000 tỷ đồng, tăng 94,5% so với năm 2017. 

Đến cuối năm 2018, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã đạt mức 474.500 tỷ đồng, bằng 8,57% GDP năm 2018 và tăng 53% so với cuối năm 2017. Trong đó, đã có khá nhiều doanh nghiệp bất động sản phát hành trái phiếu thành công như Vingroup, Novaland.

Về phía cơ quan quản lý, Chính phủ đã chỉ đạo NHNN, Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán nhà nước… đang nỗ lực triển khai nhiều giải pháp thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển, trong đó có Nghị định 163 (2018) về phát hành trái phiếu doanh nghiệp và sửa đổi Luật Chứng khoán trong năm nay.

Với những động lực từ cả 2 phía cung – cầu, tình trạng mất cân đối trong hệ thống tài chính Việt Nam lâu nay kỳ vọng sẽ được khắc phục. Điều này không những mang lại lợi ích cho tổng thể hệ thống tài chính, cả các ngân hàng, thị trường chứng khoán và bản thân các doanh nghiệp cũng sẽ có môi trường hoạt động minh bạch, ổn định và lành mạnh hơn.

Bài liên quan